Trang chủ Liên kếtHọc tập và làm theo lời Bác Nhà thơ Xuân Thủy với bài thơ “Nguyên Tiêu” của Bác Hồ

Nhà thơ Xuân Thủy với bài thơ “Nguyên Tiêu” của Bác Hồ

bởi admin
29 views

ND- Nhà thơ Xuân Thủy có nhiều dịp được gặp Bác. Ngoài những ý kiến chỉ đạo của Bác cho Xuân Thủy về chính trị nhất là trong công tác ngoại giao còn có chuyện về thơ văn.

Chuyện kể về một chuyến công tác ở rừng Việt Bắc trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Bác Hồ đi kiểm tra chiến dịch trên một con thuyền. Cùng đi có nhà thơ Xuân Thủy và một số cán bộ. Công việc xong, khi trở về trời đã khuya, trăng rằm vẫn tỏa sáng vằng vặc trên bầu trời. Khung cảnh thiên nhiên rất nên thơ, chuyện quân đã bàn xong có thể thanh thản ngắm cảnh đẹp trong đêm trăng. Mọi người đề nghị Bác làm thơ. Bác không từ chối và đọc một bài tứ tuyệt chữ Hán Nguyên tiêu là đêm rằm tháng giêng. Tháng giêng có nhiều lễ hội nhưng ngày rằm tháng giêng có ý nghĩa quan trọng. Với làng quê đây là ngày dân làng còn đang nghỉ ngơi, ruộng đồng đã cày cấy xong, xóm làng vào hội tôn thờ thần thánh, tổ chức các trò vui. Riêng trăng rằm tỏa sáng trong không khí hơi se lạnh nhưng ấm áp của ngày xuân. Bác Hồ đọc, lời thơ ngân vang:

Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
Xuân giang, xuân thủy, tiếp xuân thiên
Yên ba thâm xứ đàm quân sự
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền

Mọi người thưởng thức chất nhạc của thơ nhưng không hiểu nghĩa.

Bác Hồ bảo có Xuân Thủy đây, Xuân Thủy dịch đi. Nhà thơ Xuân Thủy vâng lời Bác đã dịch nhanh và đọc:

Rằm xuân lồng lộng trăng soi
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân
Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về  bát ngát trăng ngân đầy thuyền

Bác Hồ khen Xuân Thủy dịch lưu loát nhưng thiếu của Bác một chữ Xuân. Ðúng là ở câu thứ hai:

Xuân giang, xuân thủy, tiếp xuân thiên

được dịch là:

Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân

vẫn thiếu một chữ xuân hay nói đúng hơn là một chữ xuân được hiểu ngầm.

Từ đấy nhận xét của Bác làm cho nhà thơ Xuân Thủy băn  khoăn và tìm cách dịch cho đủ ý, đủ câu chữ. Trong một lần khi viết về thơ Xuân Thủy tôi có dịp gặp ông. Tôi đến tòa nhà ở phố Lý Thường Kiệt, cạnh trường Trưng Vương gặp ông chuyện trò về thơ Xuân Thủy. Tác giả rất tỉ mỉ về câu chữ và khi chuẩn bị ra về ông tặng tôi bài thơ dịch Nguyên tiêu qua hai bản dịch mới. Tôi đọc và cảm phục tài thơ của ông.

Rằm xuân vằng vặc trăng soi
Xuân sông, xuân nước, xuân trời đẹp thay
Việc quân bàn giữa sương dày
Khuya về bát ngát thuyền đầy ánh trăng
Rằm tháng giêng trăng tròn vành vạnh
Hòa sông xuân, nước xuân, trời xuân
Nơi khói sóng luận bàn quân sự
Khuya thuyền về bát ngát trăng ngân

Nhìn chung cả ba bản dịch đều hay. Bài thứ ba tác giả cố gắng dịch theo thể thất ngôn tứ tuyệt phù hợp với nguyên tác có đặc điểm và giá trị riêng. Tôi muốn luận bàn nhiều hơn đến bản dịch đầu.

Rằm xuân lồng lộng trăng soi

Câu thơ đẹp nói được không gian cổ kính và linh thiêng của căn cứ địa Việt Bắc. Hai chữ lồng lộng hàm ý đó. Lồng lộng vừa nói lên một không gian rộng lớn, không u tịch, nặng nề mà bát ngát nên thơ. Câu thơ đó tuy không thật sát nghĩa với nguyên bản

Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên

(Ðêm nay, lễ nguyên tiêu vầng trăng tròn ở chính ngôi vị trên bầu trời)

Ở bản dịch thứ hai câu thơ đầu được dịch sút kém hơn.

Rằm xuân vằng vặc trăng soi

Hai chữ vằng vặc quen thuộc gần gũi như vốn được dùng trong tục ngữ ca dao. Lồng lộng là từ ngữ có phần hiện đại hơn. Câu thơ thứ ba Giữa dòng bàn bạc việc quân là câu thơ dịch hay nhưng chưa thật sát với ý trong nguyên bản “Yên ba thâm xứ đàm quân sự”. Hai chữ “Thâm xứ” chưa được diễn tả đầy đủ. Cũng vì thế nhà nghiên cứu GS  Hoàng Xuân Nhị đã nói một cách ý nhị là câu thơ còn thiếu cảnh giác khi miêu tả việc quân giữa dòng trong không gian thiếu kín đáo. Bản dịch thứ hai đã dịch sát hơn với nguyên bản.

Việc quân bàn giữa sương dày

Câu thơ thứ tư của bản dịch đầu gây ấn tượng đẹp về ý nghĩa và ngôn từ ngân vang.

Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền. Câu thơ có mô phỏng câu thơ cuối trong bài thơ cổ Trung Quốc.

Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền

Bài Nguyên tiêu, nhất là hai câu kết làm chúng ta liên tưởng đến bài thơ Phong kiều dạ bạc của Trương Kế.

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền

(Trăng tà chiếc quạ kêu sương
Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn)

Bài thơ của Trương Kế có những hình ảnh gợi cảm vầng trăng tà, ngọn lửa chài, tiếng quạ kêu sương, tiếng chuông chùa Hàn Sơn. Nhưng tất cả gợi cảm hứng buồn, cô đơn của du khách. Mượn lại một đôi hình ảnh nhưng Rằm tháng giêng là bài thơ ra trận với cảm hứng hào hùng mà kín đáo. Vầng trăng về khuya  đẹp nhưng không buồn mà chứa chan cảm hứng trữ tình hòa hợp giữa con người và thiên nhiên:

Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền

Một bản dịch sát đúng nguyên bản và đẹp, đó là đóng góp nhỏ của Xuân Thủy trong việc dịch thơ Bác.